Nhà sản
xuất phần mềm bảo mật Kaspersky của Nga đã thua nhanh khi kiện Chính phủ Mỹ hồi
năm ngoái và giờ đây vụ kiện tương tự của Huawei liệu có chung kết cục?
Trong lúc phải đối mặt với nhiều cáo buộc tại Mỹ, tập đoàn viễn
thông hàng đầu Trung Quốc Huawei Technologies đã quyết định xúc tiến "vụ
kiện ngược" nhằm vào Chính phủ Mỹ, dựa trên những lập luận pháp lý mà
người khổng lồ công nghệ của Nga Kaspersky từng dùng để khiếu nại rằng Mỹ đã đi
quá xa trong nỗ lực bảo vệ an ninh quốc gia.
Đang là mục tiêu của Bộ Tư pháp Mỹ, Tập đoàn Huawei quyết định chủ động kiện Chính phủ Mỹ ra toà. Ảnh: Reuters
Trong đơn kiện nộp lên toà án liên bang ở Texas trong tuần qua,
Huawei cho rằng việc Mỹ cấm các cơ quan chính phủ mua thiết bị của công ty này
là vi hiến và có thể giết chết doanh nghiệp. Lệnh hạn chế này được áp đặt vào
năm 2018 sau khi giới chức Mỹ xác định rằng có nguy cơ sản phẩm Huawei được
Chính phủ Trung Quốc sử dụng để do thám bất hợp pháp.
Theo Bloomberg, dù tòa án Mỹ năm ngoái từng bác bỏ đơn kiện
tương tự từ hãng phần mềm Nga Kaspersky Lab, song Huawei tự tin cho rằng vụ của
họ khác với Kaspersky, vì lệnh cấm được mở rộng, theo đó bất cứ doanh nghiệp,
tổ chức nào làm ăn với Chính phủ Mỹ cũng đều không được mua sản phẩm của
Huawei. Lập luận của Huawei là một phần trong chiến dịch mạnh mẽ nhằm chống lại
các cáo buộc gian lận ngân hàng, đánh cắp công nghệ và do thám mà Mỹ đưa ra.
Kaspersky đã thua trong vụ kiện Chính phủ Mỹ
năm 2018. Ảnh: Engadget
“Câu hỏi thú vị sẽ là liệu các mối lo ngại về an ninh có cho
phép Chính phủ Mỹ hành động mà không cần quyết định tư pháp hay không?”, Giáo
sư Michael Risch tại Đại học Luật Villanova, bang Pennsylvania đặt vấn đề.
Nhưng lý lẽ của Huawei không phải là không có thách thức.
Trong vụ Kaspersky, công ty Nga bán phần mềm cho Chính phủ Mỹ
đến năm 2017, khi giới chức nước này lo rằng các sản phẩm của họ có thể được
Moskva dùng để do thám hệ thống thông tin liên bang. Bộ An ninh Nội địa Mỹ đã
chỉ đạo nhiều cơ quan liên bang loại bỏ sản phẩm của Kaspersky khỏi các hệ
thống của chính phủ, còn Quốc hội Mỹ thì cho rằng lệnh cấm đối với Kaspersky là
dựa trên Đạo luật Ủy quyền Quốc phòng (NDAA) mà Tổng thống Mỹ Donald Trump đã
ký.
Sau đó Kaspersky nộp hai đơn kiện: Một đơn tuyên bố rằng Bộ
An ninh Nội địa Mỹ làm tổn hại danh tiếng và doanh số của doanh nghiệp một cách
không công bằng, và một đơn cho rằng NDAA vi phạm điều khoản trong Hiến pháp
Mỹ, vốn cấm Quốc hội Mỹ ban hành luật gây ra hình phạt với bất cứ cá nhân,
doanh nghiệp nào mà không qua xét xử.
Một thẩm phán liên bang ở Washington đã bác bỏ lập luận từ
Kaspersky, cho rằng các lệnh cấm nằm trong phạm vi thẩm quyền của chính phủ.
Tòa án phúc thẩm liên bang sau đó cũng đồng ý, kết luận Quốc hội có quyền ngăn
chặn việc mua hàng của một hãng phần mềm cụ thể nếu có lo ngại chính đáng về an
ninh. Toà án cũng cho rằng lệnh cấm sản phẩm của Kaspersky là “biện pháp phòng
ngừa, không phải trừng phạt”.
Nhân viên an ninh Canada chở bà Mạnh Vãn Chu
trong thời gian chờ dẫn độ sang Mỹ. Ảnh: AP
Trong khi đó, vụ kiện mà Huawei khởi động ở Texas có điểm mới.
Hãng công nghệ Trung Quốc tranh cãi rằng Mỹ mở rộng lệnh cấm, không chỉ áp dụng
với việc mua sắm của chính phủ mà còn với việc mua sắm của các nhà thầu chính
phủ và những người nhận tiền từ ngân sách liên bang. Huawei cho rằng lệnh cấm
như “án tử” đối với hoạt động kinh doanh của họ mà không có quy trình xét xử
theo luật định.
Ông Robert D. Williams, học giả cấp cao tại Trung tâm Paul Tsai
Trung Quốc thuộc Trường Luật Đại học Yale (Mỹ), nhận định: “Đây là ngọn đồi rất
dốc mà Huawei đang leo. Câu hỏi đặt ra là liệu luật pháp mang tính trừng phạt
hay phòng ngừa. Quốc hội Mỹ đang cố gắng trừng phạt doanh nghiệp hay ngăn chặn
rủi ro?... Nhìn chung, tòa án bảo vệ Quốc hội và Tổng thống về các vấn đề
an ninh quốc gia”.
Trên thực tế, từ nhiều năm trước đó, giới chức Mỹ đã quan ngại
về rủi ro với việc sử dụng thiết bị Huawei. Báo cáo năm 2012 của Ủy ban Tình
báo Hạ viện Mỹ kêu gọi giới doanh nghiệp nước này tránh dùng hàng của hãng công
nghệ Trung Quốc, và kêu gọi chặn tất cả thương vụ sáp nhập, thâu tóm liên quan
đến Huawei.
Tháng 1 năm nay, sau khi công bố cáo buộc chống Huawei và Giám
đốc tài chính Mạnh Vãn Chu, Giám đốc FBI Christopher Wray đã trình bày nhiều
nguy cơ tiềm ẩn trong việc quá phụ thuộc vào công nghệ nước ngoài. “Những vụ
việc này cho thấy rõ rằng, là một quốc gia, chúng ta phải thận trọng cân nhắc
những rủi ro mà những công ty như Huawei đem đến nếu chúng ta sẽ cho phép họ
tham gia vào cơ sở hạ tầng viễn thông”, ông Wray nói. “Kiểu tiếp cận này có thể
trao cho một chính phủ nước ngoài khả năng làm biến đổi với ý đồ xấu hoặc đánh
cắp thông tin, tiến hành hoạt động do thám không thể phát giác hoặc tìm cách
gây áp lực hay kiểm soát”
Nhà sáng lập Huawei Nhậm Chính Phi. Ảnh:
Reuters
Tỉ phú sáng lập Huawei Nhậm Chính Phi đã nhiều lần bác bỏ cáo
buộc của Mỹ rằng Huawei giúp Bắc Kinh do thám các chính phủ phương Tây. Tuy nhiên,
theo ông Timothy Heath, một nhà phân tích nghiên cứu quốc phòng tại hãng Rand
Corp, không như ở Mỹ, nơi doanh nghiệp có thể từ chối yêu cầu của chính phủ về
hỗ trợ hoạt động gián điệp và có thể công khai tranh luận với chính phủ tại
tòa, không ai biết liệu giới doanh nghiệp Trung Quốc có hợp tác với chính phủ
hay không.
Huawei không thể cam kết rằng họ không bao giờ được Chính phủ
Trung Quốc tận dụng vì luật pháp nước này yêu cầu tất cả doanh nghiệp trong
nước phải hỗ trợ cho hoạt động tình báo, ông Heath cho biết. “Ngay cả khi họ
phản đối, giới doanh nghiệp không thể nhờ cậy pháp lý và không có cách nào để
từ chối yêu cầu từ chính phủ. Lời hứa của họ có thể chân thành, song rất có thể
sẽ thay đổi trong tương lai vì chính phủ. Rủi ro ở đây quá lớn”, ông Heath cho
biết.
Thu Hằng/Báo Tin tức